TRUYỆN KỂ BÁC HỒ: “BÁC HỒ VỚI TIẾNG PHÁP”
Lượt xem:
BÁC HỒ VỚI TIẾNG PHÁP
Năm 1923, nhà thơ Xôviết Ôxíp Manđenxtam gặp Bác. Bác nói với nhà thơ: “Vào trạc mười ba tuổi, lần đầu tiên tôi được nghe những từ Pháp: tự do, bình đẳng, bác ái…Thế là tôi muốn làm quen với văn minh Pháp, tìm xem những gì ẩn náu đằng sau những từ ấy, nhưng trong những trường hợp cho người bản xứ, bọn Pháp dạy người như dạy con vẹt. Chúng không cho người nước ngoài chúng tôi xem sách báo. Không phải chúng chỉ không cho đọc các nhà văn mới mà cả Rútxô và Môngtétxkiơ nữa cũng bị cấm”. “Vậy thì phải làm thế nào bây giờ?” Bác kết luận: ”Tôi quyết định tìm cách đi ra nước ngoài”.
Dù mới tiếp xúc với “Tây học”, với nền văn hoá tư sản và hệ tư tưởng tư sản, nhưng qua đoạn dẫn trên đây ta thấy Bác đã có cái nhìn sắc bén khác với những người bình thường. Hồi nhỏ, cụ Sắc luôn dạy các con phải ”biết mình biết người”. Vì thấm nhuần điều “biết mình biết người, trăm trận đánh trăm trận thắng” nên Bác muốn đến tận sào huyệt của chúng (đến các “chính quốc” Pháp, Anh) để tìm hiểu. ”Tôi muốn đi ra ngoài xem nước Pháp và các nước khác. Sau khi xem xét họ làm thế nào, tôi sẽ trở về giúp đồng bào chúng ta”.
Việc du học bị nghiêm cấm. Thế nhưng Bác vẫn tiên quyết ra đi với hai bàn tay trắng và một vốn tiếng Pháp ít ỏi học được trong nhà trường.
Mùa hè năm 1911, Bác đặt chân lên đất Pháp. “Tiếng Pháp là một trở ngại” trong bước đầu đi tìm đường cứu nước, cứu dân của Bác. Bác hiểu ngay rằng, mình phải giao thiệp bằng tiếng Pháp để làm ăn sinh sống để học tập và hoạt động cách mạng. Nhờ động cơ học tập đúng đắn và mạnh mẽ đó nên Bác đã nhanh chóng tìm ra được nhiều cách học thông minh, sáng tạo. Ngay trên chuyến tàu sang Pháp. Bác đã tranh thủ lúc rỗi để học đọc và viết tiếng Pháp với hai người lính trẻ được giải ngũ trở về Pháp. Họ cho Bác mượn những quyển sách nho nhỏ bằng tiếng Pháp. Khi đến thành phố Lơ Havơrơ, Bác học tiếng với cô Sen. Tóm lại, những người xung quanh dạy Bác học. Muốn biết một vật nào đó tiếng Pháp gọi là gì, Bác chỉ vật ấy rồi hỏi, xong viết vào mảnh giấy, dán vào chỗ hay để ý đến nhất, để vừa làm việc vừa học được. Có khi viết chữ vào cánh tay. Tối đi làm về, Bác rửa tay rồi lại viết các chữ khác. Học được chữ nào, Bác ghép câu dùng ngay. Giăng Lôngghê, cháu ngoại Các Mác là chủ nhiệm báo Dân chúng, cơ quan của Đảng Xã hội Pháp (hồi ấy Đảng Cộng sản Pháp chưa thành lập) đã khuyến khích Bác viết về Việt Nam. Nhưng bấy giờ, Bác chưa giỏi tiếng Pháp. Muốn viết gì, Bác phải nhờ luật sư Phan Văn Trường. Ông là một nhà trí thức yêu nước, đậu tiến sĩ luật khoa ở Pari, nhưng ông không muốn ký tên ở dưới và không viết hết điều mà Bác muốn nói, Bác rất khó chịu vì mình kém tiếng Pháp. Bác nghĩ: ”muốn tuyên truyền cho nước ta, nhưng không viết được chữ Pháp. Làm thế nào bây giờ? Nhất định phải học viết cho kỳ được”. Bác làm quen với chủ bút tờ báo Đời sống thợ thuyền, Bác ngỏ ý muốn viết bài, nhưng ngại vì tiếng Pháp còn kém. Chủ bút bảo: “Điều đó không ngại, có thế nào anh viết thế ấy. Tôi sẽ chữa bài cho anh trước khi đưa in. Anh không cần viết dài; năm sáu dòng cũng được”. Viết xong bài, Bác chép thành hai bản, một bản giữ lại. Lần sung sướng nhất trong đời viết văn, làm báo của Bác là bài đầu tiên được đăng trên tờ báo Đời sống thợ thuyền. Năm ấy là năm 1917. Bác đã so lại xem đúng sai chỗ nào, toà báo sửa cho như thế nào. Sau này, khi thấy đã bớt sai, ông chủ bút lại bảo: “Bây giờ anh viết dài một tí, viết độ bảy tám dòng. Rồi cứ thế, Bác viết được cả một cột báo, có khi dài hơn. Lúc ấy người chủ bút (là bạn thân của Bác) lại bảo viết ngắn lại. Rút ngắn cũng khó như kéo dài. Nhờ kiên trì rèn luyện nên Bác đã thành công. Lần sung sướng thứ hai là khi mẩu chuyện về Pari của Bác được đăng. Thường thì trong ngày làm việc, Bác đọc vài trang tiểu thuyết để trau dồi tiếng Pháp và giải trí một chút. Thấy Tônxtôi viết giản dị, rõ ràng, Bác rất thích và cũng viết một bài phóng sự về khu phố công nhân nghèo khổ nơi Bác ở. Sáng nào cũng viết từ năm giờ đến sáu giờ rưỡi. Bảy giờ phải đi làm. Khi tiết trời rét buốt, ngón tay tê cóng. Sau một tuần cặm cụi, Bác hoàn thành tác phẩm đầu tiên của mình. Bác nói với các đồng chí trong Ban văn học toà soạn báo Nhân đạo rằng: ”Tôi rất sung sướng nếu bài viết của tôi được đăng, tuỳ các đồng chí đăng hay không đăng, nhưng dù thế nào thì cũng xin các đồng chí sửa lỗi tiếng Pháp cho tôi…”
Năm 1922, tờ Người cùng khổ (Le Paria) ra đời. Bác làm chủ bút, chủ nhiệm, giữ quỹ, phát hành và bán báo, việc nào cũng đòi hỏi dùng nhiều tiếng Pháp. Bác kể lại: “Các đồng chí người thuộc địa Á Phi viết bài quyên tiền, còn bao nhiều công việc mình đều bao hết”. Trụ sở đầu tiên của Bác ở số nhà 16 phố Giáccanlô, sau chuyển sang số nhà 3 phố Mácsêđê Patriácsơ ở quận 6 là một nhà cổ xưa ở Pari. Nơi đây, Bác làm việc để ra báo và cũng chính nơi đây là trụ sở của “Hội Liên hiệp các dân tộc thuộc địa”. Bác là một trong những người sáng kiến ra tờ báo của hội này. Báo ra cả thảy được 38 số. Khổ lớn, tên báo bằng chữ Pháp đặt ở giữa, chữ Ả Rập bên trái và chữ Hán bên phải, do Bác viết. Báo này không có ban biên tập làm việc thường xuyên, vì ai nấy phải làm việc, sinh sống hoặc bận các công việc khác. Vì vậy, Bác nhiều lần được tập thể giao công việc sửa chữa bài vở và bán báo. Luật sư Mác Clanhvin Blôngcua, người đảo Guyađơlúp, trong Ban biên tập nhận xét rằng: “Anh Nguyễn Ái Quốc đã đóng góp rất nhiều cho tờ báo, anh viết khoẻ, có số viết tới hai, ba bài”, ”lời văn anh sắc bén, tư tưởng anh rõ ràng và mạnh mẽ”, ”xem và đọc những bài và tranh đó người ta thấy rõ tác giả có một tinh thần tiến công rất chủ động và rất thông minh”.
Người ta thường nhắc đến những bài của Bác trên Người cùng khổ với một lòng xúc động, mến phục: Nào là bài “Động vật học” với giọng văn rất Pháp, đả kích sâu sắc bọn thực dân; “Vĩnh biệt vị vua chúa” mỉa Khải Định lúc hắn sang dự đấu xảo ở Pháp, nào là ”Con rùa” nói lên sự tham nhũng tàn bạo của một tên quan cai trị Pháp ở Việt Nam; Những trò lố hay là Varen và Phan Bội Châu” mang tính chất một bài bút ký ”viễn tưởng”; nào là “Hands off China”… Có kỳ như số ra ngày l-8-1922 có đến ba bài viết và một bức vẽ của Bác.
Ngoài tờ Người cùng khổ ra, Bác còn viết cho nhiều tờ báo bằng tiếng Pháp nữa. Ví dụ, trên báo Nhân đạo, chúng ta thấy ”Vấn đề bản xứ”; ”Lời than vãn của bà Trưng Trắc”; “Con người biết mùi hun khói”; “Vi hành”. Riêng bài “Vi hành” (Incognito) đăng ngày 19-2-1923, tác giả nói đây là trích những bức thư gửi cô em họ do tác giả tự dịch bằng tiếng Nam (tiếng Việt), nhưng chúng ta có cơ sở để đoán là truyện này ngay từ đầu đã được viết bằng tiếng Pháp.
Về sách của Bác, chúng ta chú ý đến quyển: Bản án chế độ thực dân Pháp. Đây là tác phẩm kết hợp chủ nghĩa yêu nước với chủ nghĩa xã hội, nó nêu ra những việc thật, người thật, dùng thuật ”Gậy ông đập lưng ông” (trích lời người Pháp viết để làm tang chứng). Sách được viết bằng hình thức tiểu phẩm, làm thiên phóng sự điều tra mở đầu cho một nền văn học mới ở Việt Nam. Là văn kiện lịch sử nó cũng là tác phẩm văn học lớn bằng tiếng nước ngoài trong văn học sử Việt Nam.
Bác dùng tiếng Pháp rất linh hoạt. Trong quãng đời mười năm ở Pháp Bác đã diễn thuyết, nói chuyện, phát biểu ở nhiều nơi. Nhưng đáng chú ý nhất là lời phát biểu của Bác ở Đại hội Tua (năm 1920) và bản “Tham luận về dân tộc thuộc địa” ở Đại hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 (năm 1924). Hai lần phát biểu bằng tiếng Pháp đó chứng tỏ nhãn quan sáng suốt và sâu sắc về chính trị cũng tài năng tiếng nước ngoài của Bác, dường như Bác muốn nói gì, diễn tả như thế nào thì tiếng Pháp lúc đó đủ để phục vụ cho nhu cầu đó (ở Liên Xô còn giữ được bản ghi lời phát biểu bằng tiếng Pháp của Bác ở Đạị hội Quốc tế Cộng sản lần thứ 5 và Viện Bảo tàng Cách mạng Việt Nam đã chụp lại được bản ấy). Sau này, khi đã trở thành Chủ tịch nước Việt Nam Dân chủ Cộng hoà, Bác vẫn còn dùng tiếng Pháp ở nhiều nơi, nhiều lúc, rất có hiệu quả.
Tháng 5 năm 1946, Bác chủ động đến nói chuyện với một số lính Pháp đóng trong thành Hà Nội. Lúc ấy, quan hệ giữa ta và thực dân Pháp khá căng thẳng. Nhiều đồng chí đã đi theo và bảo vệ Bác. Tướng Xalăng giở đủ ngón này ngón nọ ra với ý đồ “tác động tinh thần”. Thật đúng là Bác đang đi vào nơi hang hùm miệng rắn. Thế nhưng, Bác vẫn thản nhiên ung dung, dùng thứ tiếng Pháp điêu luyện “rất Pháp” của mình để nói về tình yêu quê hương đất nước, về sự giải phóng nước Pháp khỏi bọn phát xít Đức, về nguyện vọng và ý chí của dân tộc Việt Nam là giành cho được độc lập, tự do… Lính Pháp vỗ tay hoan nghênh nhiệt 1iệt. Xalăng bị một cú bất ngờ, hắn sợ nguy cơ phản chiến, nên hốt hoảng vội mời Bác nghỉ với lý do 1à “Sợ Chủ tịch mệt” (!?).
Vài ngày sau, Bác sang Pháp bằng máy bay. Nhiều người lo cho Bác vì bấy giờ đã có một máy bay Pháp chở một vị lãnh tụ ở Trung Đông đâm vào núi. Thế nhưng, “vì nước quên thân, vì dân phục vụ”, lại cũng vì tin tưởng ở Đảng Cộng sản và lực lượng cách mạng ở Pháp nên Bác vẫn đi máy bay. Mấy tháng ở Pháp, Bác đã làm chấn động dư luận Pháp và thế giới, hết sức có lợi cho cách mạng. Có nhiều câu chuyện, ở đây chỉ xin nêu ra một mẩu chuyện có 1iên quan tới việc dùng tiếng nước ngoài của Bác.
Trong một buổi họp báo của Bác ở Pari có gần một trăm phóng viên các nước đến dự. Một nhà báo tò mò hỏi:
– Thưa ngài Chủ tịch, Ngài là Cộng sản phải không?
– Phải – Chủ tịch Hồ Chí Minh điềm đạm trả lời.
– Ngài đã tham gia phong trào kháng chiến?
– Đã.
– Bao lâu?
– Gần 40 năm.
– Hình như Ngài đã từng ở tù?
– Đã.
– Ở nhà tù nào?
– Ở các nhà tù khác nhau.
– Có lâu không?
Chủ tịch Hồ Chí Minh mỉm cười. Nhìn thẳng vào mặt nhà báo tò mò, Chủ tịch nói: – Ở trong tù, thời gian bao giờ cũng lâu cả. Trả lời đơn giản và bất ngờ. Đó là sự chế nhạo kín đáo hay là ý muốn ngắt lời nhà báo thiếu lễ độ nọ? Có một điều rất rõ, người Pháp, người Anh, người Mỹ đã hiểu được rằng con người có chòm râu nhọn ấy có thể mỉm cười ở Pari, Luân Đôn cũng như ở Hà Nội. Đó 1à nụ cười của một nhà tiên tri biết mở rộng biên giới của hiện tại.
Câu chuyện dưới đây do Giáo sư Trần Hữu Tước, anh hùng lao động, Viện trưởng Viện Tai – Mũi – Họng Việt Nam kể lại:
Trong thời gian đàm phán ở Pháp, hoạt động của Bác thật phong phú. Bác đọc nhiều báo và các bài nói về Việt Nam để nghiên cứu. Bác còn đi nghe hoà nhạc, xem vũ balê, tham quan cơ sở bảo tàng… Sau khi ký bản Tạm ước vào nửa đêm 14 – 9 – 1946, Bác cùng vài người nữa về nước trên một thông tin hạm dài hơn trăm mét của Pháp. Lúc qua vịnh Cam Ranh để về Hải Phòng, đô đốc Đácgiăngliơ lúc ấy thay mặt Chính phủ Pháp ở Đông Dương điện ra xin gặp, cho nên tàu ghé vào vịnh. Thì ra chúng bố trí rầm rộ. Hai thuỷ phi cơ bay lượn quanh chiến hạm bảy tầng lính thuỷ của Đácgiăngliơ. Đácgiăngliơ kéo hết các loại cờ, giương hết các nòng pháo. Bác chỉ đi với mỗi giáo sư Trần Hữu Tước lên tàu. Đối phó như vậy thật hiệu quả ngay. Khi ra cửa tàu đón, Đácgiăngliơ đã phải nói ngay với giọng cáo già: “Thưa Chủ tịch, đến tuổi tôi, tôi lại được học đi với thầy thuốc là… thượng sách!”. Bác chỉ mặc giản dị, thái độ thản nhiên, đường hoàng với phong cách người chủ ở đây, còn sự loè loẹt của chúng lại trở nên xa lạ, ngượng ngùng. Tiệc trên chiến hạm là một cuộc đấu trí để lưu ý xỏ xiên rằng Bác đang ngồi giữa hai tướng Pháp lừng danh (tức bị “đóng khuôn” kẹp chặt), giữa một bên là đô đốc thuỷ quân Thái Bình Dương, một bên là thống soái lục quân Viễn Đông Đácgiăngliơ lưỡi dẻo quẹo, vừa cười vừa nói: “Monsieur le président, vous voi la biên encadré par LArmeé ét la Marine (Chủ tịch thật bị “đóng khung” giữa lục quân và hải quân đó!). Hắn cố nói kiểu nhát gừng, tách riêng và nhấn mạnh những tiếng “bién encadré” (thật bị đóng khung). Nói xong Đácgiăngliơ dương dương tự đắc ý cùng đồng bọn cười khoái chí vì câu nói hiểm hóc đó. Nhưng rồi chúng cũng phải ngồi lịm đi khi Bác mỉm cười, ung dung trả lời ngay: “Mais, vous savez, Monsieur L Amiral, c’est le tableau qui fait la valeur du cadre!” (Nhưng mà Đô đốc biết đấy, chính bức hoạ mới đem lại giá trị cho chiếc khung!”). Hồi tưởng lại, câu nói của Bác như có một ý nghĩ tiên tri: Pháp thua nhưng ”vinh dự là thua Việt Nam”. Trong bữa tiệc, còn nhiều câu trả lời ý vị bằng thứ tiếng Pháp đúng giọng và điêu luyện của Bác ứng đối với bọn thực dân. Cuối cùng, chúng thấy thực là đau nên phải thôi cái trò chơi chữ ấy. Nhiều câu chuyện của Bác hồi đó nay đã trở thành những giai thoại diệu kỳ.